Title: Thị Trấn Mùa Hạ
Author: Jullian Winslow
Couple: AtsuMina
Rating: K
Status: Completed
Note: Sắp hết hè rồi, đời tôi sắp trôi dạt về phương trời xa xăm rồi...
Tình yêu, tôi nói, là thứ tình cảm dai dẳng và đau khổ nhất.
Author: Jullian Winslow
Couple: AtsuMina
Rating: K
Status: Completed
Note: Sắp hết hè rồi, đời tôi sắp trôi dạt về phương trời xa xăm rồi...
Tình yêu, tôi nói, là thứ tình cảm dai dẳng và đau khổ nhất.
“Chào em nhé, chị đi cùng em đến đây thôi,” đó là tất cả
những lời cuối cùng Yuko nói với tôi trước khi chị khuất bóng đằng sau dãy nhà
chờ của ga tàu. Hai chúng tôi đơn giản chỉ là những người bạn đồng hành cùng gặp
nhau trên chuyến tàu từ Tokyo đến Chiba, nhưng điểm đến của Yuko lại gần hơn
tôi và chị để tôi lại một mình trên con tàu vắng người để tiếp tục cuộc hành
trình của mình.
Cuối tháng 7, vẫn chưa đến kỳ nghỉ hè, chuyến tàu đi
Chiba chỉ lác đác có vài ba người. Tôi đi lại khắp cả con tàu, ngắm nhìn những
hình ảnh đang trôi lại phía sau, bỏ lại cả bóng hình Yuko đơn độc cùng chiếc
valise nhỏ màu nâu sẫm đứng ở cửa nhà ga ngoái nhìn theo. Trời rả rích mưa, suốt
mấy hôm nay, cái không khí ủ dột và ngột ngạt cứ dần hòa tan vào trong hàng triệu
những phân tử nước rơi xuống từ nền trời xám xịt, nó lan dần ra khắp nơi và ăn
sâu vào trong tâm hồn con người. Con tàu chậm rãi lướt trên đường sắt, tôi thử
chạm vào ô kính trong suốt ngăn cách tôi và thế giới bên ngoài. Một vài hạt mưa
rơi rớt trên bề mặt kính lạnh ngắt, hơi nước phủ lên nó một bức màn mỏng tang mờ
đục. Tôi di di ngón tay, vẽ ra lỗ hổng nhỏ giữa lớp màn ấy như một con mắt thần,
lặng lẽ nhìn ra khung cảnh hai bên con đường, nơi mà giờ đây đã bắt đầu đọng lại
những vũng nước nhỏ, vài hạt mưa rơi xuống những rãnh nhỏ hai bên đường, hòa
vào dòng nước đổ xuống từ các mái hiên lan ra trên mặt đường, xuôi theo dòng chảy
vẽ ra trên mặt đường ẩm ướt những mảng tối màu nổi bật. Mùa hạ ở Nhật Bản luôn
là một chuỗi ngày dài của những cảnh sắc này, nhưng nếu bỏ qua tất cả, tôi nghĩ
mình thích như thế này hơn là những ngày nắng ấm. Chẳng hiểu vì sao, chỉ là tôi
cảm thấy thích.
Lý do gì tôi lại bước lên chuyến tàu này đây? Không hẳn
là vì tôi muốn được nghỉ ngơi sau những ngày dài bận rộn ở trường học, tôi có
thể có cả một mùa hè để làm những gì mình thích. Nhưng vì điều gì tôi lại muốn
nghỉ học giữa chừng chỉ để một mình đến Chiba trong khi những tháng ngày tự do
đã sắp gần kề? Tôi không biết, nhưng tôi có một linh cảm lạ kỳ. Chỉ là tôi muốn
được đi Chiba, thế thôi. Nền trời xám xịt, một màu tối tăm ảm đạm bao trùm
không gian quanh tôi, thế nhưng, mặc kệ tất cả những điều đó, con tàu vẫn lướt
đi êm ả trên chặng đường của mình. Còn khá xa mới tới trạm tiếp theo, tôi nhìn
qua cái lỗ hổng mình vừa tạo ra, chỉ thấy một khoảng trời xiêu vẹo chông chênh
đang nghiêng mình trước sức nặng của cơn mưa bão tháng Bảy. Có một vết nứt toạc,
một vết thương, hay cả một nỗi đau bị xé rách bởi những tia sét lập lòa sáng
lóa. Những đợt sấm vọng về mỗi đêm, tôi nhắm mắt lại, có cảm giác như từ khe hở
của bầu trời, những hạt mưa rơi xuống, giống như từng giọt máu rỉ ra từ vết
thương, mưa mang theo một nỗi đau âm ỉ, một niềm xúc cảm lạ kỳ, một cảm giác chộn
rộn không yên. Không hiểu sao tôi cảm thấy quá đỗi chông chênh, như thể những
gì mình đã xác định rõ nét nay lại trở nên thật mờ nhạt. Trong một khoảnh khắc
nào đó khi tôi đắm mình vào trong cơn mưa, cảm nhận hơi thở lạnh lẽo của mùa hạ
qua những hạt nước nhỏ ám trên khung cửa, hít lấy cái mùi hơi đất xộc lên từ
bên ngoài, trong một không gian nhỏ của con tàu đến Chiba, tôi nghĩ mình lại
nghe thấy giọng nói của Yuko khi chị nói về truyền thuyết tại ga tàu
Kazusanakano, thuộc tuyến Isumi, nối với trạm Ohara.
Bằng một chất giọng nhẹ nhàng và ấm áp, lời của Yuko lặng
lẽ đánh thức trong tâm trí tôi cái mục đích mơ hồ mà tôi đã vạch ra bằng dự cảm
cho chuyến đi của mình. Tôi đến Chiba là vì điều gì? Tôi không biết nữa, nhưng
có lẽ, chỉ có lẽ thôi, tôi có một linh cảm lạ kỳ về truyền thuyết đó. Nó và
tôi, cả hai chúng tôi có liên quan gì với nhau không?
“Người ta bảo rằng, nếu đi trên chuyến tàu đến trạm
Kazusanakano, điểm đầu của tuyến Isumi vào một ngày mùa hạ, bạn sẽ có thể gặp
người mà mình yêu thương.”
Truyền thuyết đó...có không nhỉ? Rất nhiều người đã nói với
tôi về điều ấy, bạn bè trong lớp, người quen, kể cả Yuko cũng nói về truyền
thuyết này. Tôi không tin, nhưng điều gì đó thôi thúc tôi, một giấc mộng mơ hồ
thoảng qua tôi nghe có tiếng ai gọi tên mình, văng vẳng vọng về từ một nơi xa
xôi. Và rồi trong tôi hiện ra hình ảnh một ga tàu vắng bóng người vào buổi xế
chiều mùa hạ, mưa như trút nước đổ xuống những con đường đất của làng quê
Chiba, nơi đường sắt trơn trợt, sỏi đá và đất cát lẫn vào nhau, hai bên đường
là những khóm cẩm tú cầu nở rộ. Đâu đó, hình như là Kazusanakano.
Người ta bảo, vào mùa mưa, cẩm tú cầu sẽ nở rộ trên tuyến
đường sắt Isumi. Những khóm hoa với từng cánh nhỏ li ti mang tên cẩm tú cầu ấy
luôn là một điều bí ẩn khi tôi nhớ về mùa hạ. Tại sao nó lại có được những sắc
màu đó? Ai là người đã đánh đổ bảng pha màu lên những khóm hoa này? Trong cơn
mưa, sắc trắng lan đều trên từng cánh hoa, rồi dần dần nó ngả sang xanh lơ, rồi
xanh nhạt. Những biến chuyển kỳ lạ của đất trời mang đến cho loài hoa đó một thứ
sắc màu không thể định hình, trong màn mưa lạnh căm của những đêm mùa hạ, xung
quanh nó lại phảng phất thứ mùi hương tinh khiết đến kỳ lạ, khuấy động những nỗi
hoang mang và lo lắng trong tôi. Vì điều gì đây? Và tại sao lại là cẩm tú cầu, ở
ngay tại Kazusanakano này?
Tôi nhắm mắt lại, mơ hồ tôi nghe thấy có ai đó gọi tôi, bằng
một giọng rất mỏng và nhẹ, “Minami. Minami.” Người ta bảo nếu đến trạm đầu tiên
của tuyến Isumi sẽ có thể gặp được người mà mình yêu thương, thế nhưng, tôi
không có người yêu, và giả như truyền thuyết đó là có thật, vậy tôi sẽ gặp ai
đây? Người tôi đã yêu? Không, tôi đã chẳng còn cảm xúc gì với anh ấy nữa. Người
tôi đang yêu? Sẽ là cha hay mẹ đây? Và nếu là người tôi sắp yêu, thì liệu có
đúng là tôi sẽ yêu người đó không? Tôi không biết, và tôi cảm thấy bất an. Vì
điều gì? Vì những bí ẩn xoay quanh một truyền thuyết xưa, lý do tôi bước chân
lên con tàu này? Vì câu nói của Yuko lúc chia tay, rằng chị ấy đã thật sự gặp
được người mình yêu ở Kazusanakano? Hay là...vì một nỗi niềm không tên, sự hồi
hộp và nôn nao đang cuộn trào trong người tôi theo từng âm thanh của con tàu lướt
trên đường sắt. Tôi đang chờ mong một người nào đó sẽ xuất hiện ở đấy, ở điểm đầu
của tuyến Isumi, chờ mong người tôi yêu... Thế nhưng mà, người đó là ai, tôi
không thể nào tưởng tượng hay phác họa nỗi hình ảnh người ấy trong đầu mình, tất
cả chỉ là một cảm giác bồn chồn và mong mỏi, có cái gì đó chộn rộn trong lòng
tôi, khi hạt mưa nhỏ lặng lẽ lăn vào khe hở của khung cửa kính ám đầy bụi trong
cơn mưa tầm tã những ngày mùa hạ, tôi nghĩ, có lẽ mình đã từng đánh mất một điều
gì đó rất quen thuộc. Hẳn là bởi vì cái linh cảm và việc điều gì rất thân
thương với bản thân sẽ chờ mình ở đây mà tôi mới cảm thấy nhốn nháo không yên,
một thứ gì đã gắn bó với tôi, gần như là một nửa của tôi đã biến mất từ lâu,
tôi nghĩ mình sẽ tìm lại được nó ở Kazusanakano này.
Có phải đó là thứ sẽ chờ tôi ở cuối con đường này hay
không?
Quá trưa, bầu trời giăng mắc đầy những cụm mây màu trắng
xám, mùi hơi đất xộc lên, báo hiệu cho một cơn mưa lớn sắp đến. Bên ngoài gió
thổi mạnh, những tán cây khẽ lay động, khung cảnh làng quê Chiba thanh bình lướt
qua tầm mắt tôi, giống như thời gian đang dần trôi vuột khỏi tầm tay tôi cố níu
giữ. Tôi có cảm tưởng như con tàu này là một vật mốc và những thứ ở thế giới
ngoài kia là thời gian đang trôi qua, từ quá khứ cho đến hiện tại, con tàu cứ
đi, đi mải miết không ngừng nghỉ. Rốt cuộc thì sao đây? Tất cả mọi thứ đều thay
đổi, lòng người đổi thay, những ký ức mờ nhạt còn đọng lại trong tôi từ cái
quãng đời bị lãng quên trước đó giờ đây cũng giống như đám hơi nước bám trên cửa
kính, rồi cũng sẽ sớm tan biến vào trong cái miền không gian nào đấy ở thăm thẳm
xa xôi. Tôi chẳng thể nhớ cũng như lý giải được bóng hình thấp thoáng trong tâm
trí lúc này đây, nhưng từ trong toa tàu đang lướt trên mặt đường sắt trơn trợt
này, một khoảnh khắc nào đấy, tôi đã nghe thấy tiếng leng keng của chuông gió,
của những cái lục lạc nhỏ xíu trong quả cầu thủy tinh có vẽ hình, khẽ khàng
đung đưa trong sự xô đẩy của các khối khí đang di chuyển trong không trung, âm
thanh thanh mảnh ấy khẽ khàng ngân lên bên tai tôi. Leng keng. Leng keng.
Tôi nhìn quanh toa tàu, chẳng có ai ngoài tôi, một ông
già đang gà gật, một phụ nữ trẻ vỗ về cô con gái nhỏ và một ông bác trung niên.
Chẳng có ai di chuyển, họ ngồi im đó, làm cách nào lại có tiếng chuông nhỉ?
Nhưng vẫn cứ kêu leng keng, nó không dừng lại, tôi đưa mắt nhìn ra ngoài, chẳng
có ai ngoài những ngôi nhà đang co mình trong giá lạnh của cơn mưa mùa hạ. Tiếng
chuông gió thôi thúc tôi, cảm giác chộn rộn vừa mới lắng xuống nay lại trở mình
thức giấc. Những hồi chuông rời rạc âm vang bên tai tôi, như thể không phải gió
đang lùa những sợi dây nhỏ treo mảnh giấy viết điều ước, mà là có ai đó đang lắc
nó, tôi hình dung ra ai đó đang cầm quả cầu thủy tinh nhỏ trong tay, đôi mắt nâu
lặng lẽ quan sát họa tiết bên trên mặt thủy tinh trong suốt, và người ấy lắc
nó. Leng keng. Leng keng. Âm thanh chậm rãi trong trẻo ngân vang trong gió, những
hồi chuông lặng lẽ, như thể có ai đó đã gửi vào đó một niềm thiết tha, một nỗi
mong mỏi và chờ đợi. Thế nhưng, tôi tự hỏi, ai là người đã tạo nên những tiếng
ngân đó? Ai đã gửi gắm nỗi lòng mình vào trong cái âm thanh đang vang vọng kia,
liệu nó có phải là tiếng gọi từ sâu thẳm bên kia thế giới, từ một miền không
gian thẳm xa nào đó hay không? Leng keng. Leng keng. Lại là nó, thật buồn bã và
đau đớn, tiếng vang nhẹ nhàng như cứa vào lòng tôi, giống như một điệp khúc thật
buồn bã, người ấy, ở một phương trời xa xăm nào đó, đang lắc cái chuông gió
này, để kêu gọi một ai đó, để dẫn đường cho người nào đó, một kẻ bộ hành lang
thang quên đường về nhà. Nó rời rạc, nó đứt quãng, nhưng dần dần lại tăng nhanh
theo một nhịp điệu khó hiểu, dồn dập và mạnh mẽ, leng keng, leng keng, leng
keng. Ai đó đang ra sức lắc mạnh từng hồi chuông, những chiếc lục lạc bên trong
quả cầu va vào nhau loạn xạ, như con lắc điên cuồng dao động, vẫn thế cái âm
thanh trong trẻo leng keng. Rối bời. Hỗn loạn. Nó sẽ vỡ mất. Tôi tự hỏi, nếu
người ấy vẫn cứ lắc quả cầu thủy tinh không ngừng nghỉ thế này, liệu một lúc
nào đó, làn âm thanh ấy có làm chuông gió vỡ tan hay không?
Nhưng tiếng vọng ấy giống như từng hồi chuông giục giã,
kèm theo đó là hình ảnh mơ hồ khi tôi nhìn thấy đôi bàn tay với những ngón tay
thanh mảnh đang ra sức níu giữ lấy chiếc chuông gió mỏng manh. Lòng tôi rối bời
theo từng nhịp điệu ngân nga, làn sóng âm thanh như đánh vào trong tôi, kêu gọi
tôi. Tiếng gọi thảm thiết và ưu sầu, ai đó đang cất tiếng, giọng nói xen lẫn
trong tiếng chuông gió leng keng. Minami.
Minami. Trở về đi.
Nó đang gọi tôi, người ấy đang gọi tôi.
Nhưng mà, đó là ai? Người đó là ai vậy?
Tiếng loa thông báo và âm thanh cót két của bánh xe trượt
trên đường sắt kêu rin rít kéo tôi trở về với thực tại. Tàu dừng ở một nhà ga địa
phương, ông già vẫn còn ngủ, người phụ nữ trẻ vội kéo cô bé đi cùng mình, họ rời
tàu, và một đôi vợ chồng tình tứ nắm tay nhau bước lên, ngồi ở cái chỗ trống mà
họ nhìn thấy đầu tiên ở gần cuối toa tàu. Chẳng còn tiếng chuông gió kêu leng
keng nào nữa. Chẳng còn âm thanh da diết và rối bời khi người ấy gọi tên tôi,
giọng nói mỏng manh như vỡ ra thành từng mảng âm rời rạc trôi nổi trong không
trung, trong một khoảnh khắc rất nhanh nào đó khi tôi chớp mắt, bộ yukata mùa hạ
chạy lướt ngang qua, một không gian tăm tối thiếu vắng ánh sáng, bị che khuất bởi
những tán cây ngả nghiêng đan chéo trên đỉnh đầu, ai đó tôi không nhìn thấy mặt
chạy thật nhanh trên nền đất ẩm ướt, những sợi tóc đen bay phấp phới, cùng với
đó là tiếng cười trong veo và dịu êm. Người ấy biến mất khi âm thanh của hiện
thực xen vào trong khoảng trống tâm hồn tôi, tiếng chuông gió đã biến mất nhanh
chóng như khi nó tìm đến, cảnh vật lại tiếp tục chạy lùi khi con tàu mang theo
tôi và nhưng con người xa lạ xuyên qua dòng thời gian vẫn đang trôi, màu đỏ của
bộ yukata cùng những họa tiết trên đó nhập nhòa như khung cảnh đằng sau làn nước
mỏng bám trên kính, và cứ thế biến mất ở cuối đường chân trời.
Từ một nơi nào đó trên con tàu này, giọng người nhân viên
lanh lảnh vang lên khi chị đọc đi đọc lại cái thông báo mà chúng tôi sớm đã thuộc
lòng, chỉ khác ở chỗ thay tên địa điểm. Trạm tiếp theo sẽ là Kazusanakano, còn
cách địa điểm hiện tại chừng hai mươi lăm phút ngồi tàu.
Trong hai mươi lăm phút đó, tôi mở điện thoại lên kiểm
tra, không có tin nhắn nào từ gia đình, một tin hỏi thăm của lớp trưởng về việc
nghỉ học hôm nay. Bố mẹ tôi đã sang nước ngoài từ tuần trước và sẽ chẳng trở về
kịp để biết là tôi không đến lớp từ hôm nay cho đến khi chúng tôi trở lại trường
vào quãng cuối hạ. Hành lý chỉ vỏn vẹn chiếc túi xách với vài bộ quần áo đủ cho
hai hoặc ba hôm gì đó, tôi đã gọi cho bà ngoại và thông báo là mình sẽ về thăm
bà trong vài ngày, ở một thị trấn cách trạm Kazusanakano khoảng ba mươi phút đi
bộ. Bà đã chuẩn bị sẵn yukata và nói rằng tôi có thể ở lại để xem bắn pháo hoa,
nhưng tuyệt nhiên chẳng hỏi lý do vì sao tôi không đợi đến kỳ nghỉ mới trở về.
Nếu bà biết lý do thật sự, liệu tôi có bị mắng không nhỉ?
Xế chiều, khoảng hai hay ba giờ gì đó, một cơn mưa phùn bất
chợt ghé qua vùng nông thôn Chiba khi con tàu đang đi qua một khoảnh đất với những
khóm rau xanh nhỏ xíu xen giữa đám đất cát và sỏi đá hai bên rìa lối đi trơn trợt.
Tôi có thể nhìn thấy rõ vài khóm hoa lưa thưa ở phía xa, và cùng với cái giọng
nhàn nhạt lúc ban đầu, người nhân viên thông báo rằng trạm Kazusanakano đã ở rất
gần trước mắt chúng tôi. Tôi nhìn lại chiếc túi xách của mình, nó vẫn nằm im ở
trên băng ghế, hơi lạnh trong toa tàu có điều hòa bám lên lớp vải với những họa
tiết hoa anh đào li ti trên bức nền màu xanh nhạt. Tiếng chuông gió lại ngân
nga, nhưng không phải theo cái nhịp điệu gấp rút và hỗn loạn như trước, chỉ đơn
giản là âm thanh của lục lạc va vào nhau khi gió đưa đẩy chiếc chuông nhỏ kêu
leng keng. Có lẽ người ấy đã thôi không còn hy vọng, cũng không trông mong gì nữa
vào việc rung lắc quả cầu thủy tinh trong bàn tay. Một thoáng im lặng, tôi khẽ
hình dung ra những ngón tay người ấy cố níu giữ sợi dây màu đỏ, khi một đợt gió nhẹ nhàng lướt qua, làm lay động
những cái lục lạc bé xíu.
Sắc màu thân quen của cẩm tú cầu hiện lên từ phía xa xa,
một bảng phối màu mà ai đó đánh rơi lên những cánh hoa bé xíu, màu trắng, xanh
lơ, xanh nhạt, tím, hồng phớt,...những sắc màu thanh thoát ấy lan ra trên những
khóm hoa, lẫn vào nhau giống như khi ta vô tình làm đổ những lọ màu vẽ, đơn giản
nhưng lại đẹp đến không ngờ. Càng về gần tới trạm, tôi càng cảm thấy được rõ
hơn bao giờ hết sự bồn chồn và lo lắng đang dấy lên bên trong cơ thể mình. Tôi
nghĩ mình đã thấy một điều gì đó rất thân quen, đó là cái không khí tinh khiết
sau mưa pha lẫn mùi cẩm tú cầu, là niềm háo hức khi mùa hè đang thực sự mở ra
trong tôi, hay là...cảm giác nôn nao khi sắp sửa tìm lại được một món đồ mình
đã bỏ lại nơi này? Và truyền thuyết mà những người bạn trong trường đã đồn ấy nữa,
liệu nó có thật sự đúng? Ai đó đang đứng chờ tôi ở cuối con đường này thật sao?
Liệu có phải là người ấy hay không?
Tàu dừng lại ở trạm Kazusanakano vào đúng ba giờ chiều, từ
phía xa, tôi đã có thể nhìn thấy rõ cái hành lang của nhà ga và phòng chờ nhỏ
xíu dành cho những kẻ phiêu bạt chờ đợi. Một màu nâu sẫm của gỗ, hòa cùng với
mùi hơi đất xộc lên nhè nhẹ và hương hoa ở hai bên đường tàu chạy, Kazusanakano
toát lên một vẻ cô độc tột cùng giữa một vùng nông thông mênh mông những khoảnh
đất trống và những ngọn núi xa xa, chạy dài thành một hàng, vạch lên nền trờ u
ám những dải màu xám mờ nhạt uốn lượn. Chẳng có lấy một bóng người, trừ nhân
viên của nhà ga đang chờ chúng tôi và một người nữa đang ra hiệu cho tàu dừng
đúng chỗ. Con tàu đỗ ở khoảng trống mà nó được hướng dẫn, tốc độ giảm dần cho đến
khi một tiếng “két” nghe rin rít tai vang lên, cả người tôi ngả về phía trước rồi
nhanh chóng bị giật ngược trở lại theo quán tính, đến lúc định thần nhìn lại,
nhà ga đã ở ngay trước mắt tôi.
Hánh khách đứng dậy khỏi chỗ ngồi và xếp hàng đi xuống,
những băng ghế trống trơn bị bỏ lại, tôi kiên nhẫn đứng chờ tất cả mọi người
đang khệ nệ xách không biết bao nhiêu valise xuống trước rồi mới thong thả theo
sau. Trước khi bước xuống tàu, tôi ngoái lại nhìn về phía ô cửa nơi cuối tàu,
con đường sắt chạy dài mãi cho đến tận cùng chân trời rồi khuất bóng, lác đác
những khóm hoa ở hai bên lề đường và đám cỏ dại xanh um sau cơn mưa. Tôi chỉ chịu
rời tàu khi nghe tiếng gọi của một chị nhân viên gần đó, xốc lại chiếc túi xách
nhẹ tênh của mình, tôi bước xuống những bậc thang, mọi thứ đều im ắng đến rợn
người, chỉ có tiếng gió rin rít bên tai và âm thanh của những chiếc lá lay động,
trước mắt tôi là một đoạn đường dài ngập trong những khóm cẩm tú cầu nhàn nhạt.
Tim tôi đập thình thịch, xung quanh tôi, ngoại trừ những người đã đi cùng tôi
trên con tàu lúc ban nãy, chẳng có lấy một ai.
Truyền thuyết đó không có thật.
Tôi tự nói với mình như thế, và cười một mình như một đứa
ngốc. Câu chuyện ngốc nghếch để lừa gạt những đứa học sinh thích tin vào điều kỳ
diệu. Những người bạn đã lừa tôi. Yuko cũng lừa tôi, còn tôi chỉ là một kẻ
thích ra vẻ và tin vào cái điều gọi là cảm tính vốn chẳng có cơ sở khoa học đó.
Tôi không nghĩ mình cảm thấy thất vọng chỉ vì truyền thuyết kia không hề tồn tại,
nhưng từ sâu thẳm trong tôi, một nỗi đau đớn không tên và cảm giác nhức nhối
xen lẫn thất vọng cứ âm ỉ như tiếng vọng của những đợt sấm mỗi đêm. Tôi đã biết
lời đồn đại không có thật, đó chỉ là một câu chuyện được ai đó tạo nên để đáp ứng
kỳ vọng của mọi người về một tình yêu thật đẹp đẽ, dẫu vậy nhưng tại sao, khi đặt
chân đến Kazusanakano này, tim tôi lạ đau đến thế? Tôi đang tìm kiếm ai vậy? Và
tôi đang mong chờ điều chi đây?
Leng keng. Leng keng. Nhưng âm thanh đó nghe thật quen
thuộc, tiếng vọng từ bên kia của thế giới thẳm xa, những hồi chuông thanh mảnh
ngân vang, chiếc chuông gió của người đó lại gọi tôi. Có một hành lang dài ở
bên ngoài nhà ga, ngay sát bên đường sắt với vài chiếc ghế dài bằng gỗ đặt sát
vào tường, hiu hắt chẳng có lấy một bóng người. Chuông gió lại kêu, âm thanh buồn
bã đó lại ngân nga, ngày một rõ ràng hơn, và cũng gần hơn. Tôi tự hỏi, có phải
người đó đang ở đây không?
Tôi đi theo tiếng gọi của người đó, xen lẫn trong từng hồi
chuông là âm giọng mỏng và thấp đang gọi tên tôi. Nó rất gần, tưởng chừng như
người ấy đang đứng sát bên cạnh tôi, thì thầm vào tai tôi thật nhẹ nhàng khi lắc
nhẹ quả cầu thủy tinh. Tôi đảo mắt nhìn quanh, cảnh vật hiu hắt, yên tĩnh, chỉ
có mùi hương của đất sau mưa, những vệt nước còn đọng lại bám trên những tấm
kính, và...một cô gái. Một cô gái với mái tóc đen dài nhẹ nhàng buông thả, ngồi
trên cái băng ghế xa nhà ga nhất, khoác trên mình bộ đồng phục thủy thủ tối
màu, hai bàn tay cô đặt trên váy, nâng niu một quả cầu trong suốt với những vệt
màu nước vẽ hình vài chú cá vàng. Một cái chuông gió.
Tuy đứng cách cô ấy một quãng nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận
được nét dịu dàng và tinh khiết xung quanh cô. Kiểu đồng phục với màu tối, váy
dài đến lưng chừng đầu gối ấy đã từ lâu lắm rồi tôi không còn nhìn thấy nó nữa,
nhưng dựa vào lớp vải đã bạc màu và đôi giày cũ sờn cô đang mang, tôi có thể quả
quyết đó là mẫu đồng phục cũ của rất nhiều năm trước đây. Những sắc màu của sự
lẻ loi và đơn độc vây quanh cô ấy, kể cả mái tóc đen rũ xuống lòa xòa che đi một
phần gương mặt cũng khiến cho cô trở nên xa xôi hơn bao giờ hết, tựa như cho dù
tôi có đi, đi và đi mãi thì cũng chẳng bao giờ tôi có thể đến được chỗ cô đang
ngồi. Bóng hình đơn lẻ ngồi lặng im, đầu cúi xuống, tôi tự hỏi cô đang suy nghĩ
về những điều gì đây?
Cô ấy đang đợi ai đây? Tôi nghĩ ngoài tôi ra, chẳng có ai
đến đây vì cái truyền thuyết kia đâu, đa phần họ về thăm nhà, một số lại là đi
du lịch, vậy nên nếu câu chuyện ấy có thật, và cô ấy là người đang đợi tôi, thì
có phải tôi sẽ yêu cô ấy không?
Nhưng đó là nữ, không phải nam. Một cô gái chờ đợi tôi ở
cuối trạm Kazusanakano, với vẻ đẹp dịu dàng và quen thuộc đến khó tả, cô ngồi
mân mê chiếc chuông gió bằng thủy tinh, những âm thanh xốn xang vang lên theo
nhịp những chiếc lục lạc va đập. Nghe thật buồn cười, nhưng sao trong tôi vẫn cảm
thấy muốn bám víu lấy niềm hy vọng nhỏ nhoi ấy, rằng cô đang chờ đợi tôi. Khi
đôi bước chân tôi dừng lại trước mặt cô ấy, đôi giày của tôi lấm lem bùn đất và
cả nước mưa, trông cũng cũ sờn như giày của cô ấy vậy. Đồng phục mùa hè của tôi
so với màu xanh đen thăm thẳm trên lớp vải bạc màu kia thật nổi bật, màu trắng
tinh khiết lướt qua như một sắc màu đẹp đẽ, đối lập hẳn với cái vẻ cũ kỹ tối
tăm cô đang khoát trên người. Trong cái khoảnh khắc khi cô ấy ngước lên nhìn
tôi, tôi chỉ biết im lặng nhìn vào vẻ mặt với những xúc cảm khó tả, đôi nhãn cầu
màu nâu nhạt sâu thẳm, một thế giới tĩnh lặng nép mình bên trong ánh nhìn của
cô, ánh mắt mang chút gì đó luyến tiếc và đau khổ, như thể cô vẫn đang muốn níu
kéo một điều gì ở nơi nào đó thật xa xăm.
“Cậu...đang chờ ai sao?”
Cô ấy nhướn mắt nhìn tôi, cái khoảnh khắc ánh mắt cả hai chạm
nhau, tôi nghĩ cô ấy đã cố gắng giấu đi sự kinh hãi của mình, bằng vào sự xao động
thoáng qua nơi đáy mắt, và cơ hồ đôi môi ấy khẽ chuyển động, rồi âm giọng trầm
như thể đã lâu lắm rồi chưa hề cất tiếng cất lên, tôi nghe có tiếng chuông gió
kêu leng keng.
“Tôi...đang chờ người đó.”
“Người đó...cậu đến đây vì truyền thuyết ư?”
“Lâu lắm rồi đấy, đã bao nhiêu năm rồi nhỉ? Tôi đã chờ
người ấy ở đây rất lâu rồi.”
Cô ấy cười nhạt, thảng hoặc đôi mắt ấy hiện lên sự đau khổ,
rồi đôi nhãn cầu màu nâu đẹp đẽ kia di chuyển về một không gian xa mãi xa, lơ lửng
đâu đó ở lưng chừng khoảng trời ảm đạm. Mùi hoa tử đinh hương thoang thoảng
trong không gian.
Nhiều năm, cô ấy đã ở đây chính xác là bao lâu vậy? Cái
biểu cảm buồn bã và ủ dột đeo bám trên khuôn mặt cô, cùng với vẻ cô đơn và sắc
màu tăm tối kia, tôi có cảm giác như nơi cô thuộc về là một thế giới thật tối
tăm. Một linh hồn lạc lối. Cô đã chờ ai ở đây vậy? Và cô ấy có phải là người
tôi muốn gặp không? Chiếc chuông gió kia, âm thanh đau đớn và dồn dập của nó phải
chăng chính là thứ âm thanh đã văng vẳng bên tai tôi trên con tàu lúc ban trưa?
Có phải cô là người đã lắc quả cầu thủy tinh đó để chờ người ấy không?
Có lẽ, chỉ là có lẽ thôi, tôi đã cảm thấy ganh tị với người
đó, tôi đã cảm thấy hụt hẫng khi người cô ấy chờ không phải là tôi. Nhưng tại
sao lại có người nhẫn tâm để cô ấy chờ đợi lâu đến vậy cơ chứ?
Ánh mắt ấy di chuyển chậm rãi rồi dừng lại trước mắt tôi,
cô ấy khe khẽ hỏi, bàn tay run rẩy nắm lấy chiếc chuông gió, khiến cho nó khẽ
lay động, tạo nên những âm vang của sự hỗn loạn:
“Cậu...là ai?”
Trong đôi nhãn cầu ấy là một sắc nâu dịu nhẹ và trống rỗng,
giống như đã chờ đợi quá lâu, giống như hy vọng đã tắt ngấm hệt như ánh lửa
trong đám tàn dư của những tấm ảnh cũ kỹ, có lẽ cô đã buông xuôi cái niềm tin
được gặp lại người ấy từ rất lâu rồi, thế mà, cho đến bây giờ, cô vẫn kiên nhẫn
chờ đợi như thế sao?
“Takahashi Minami.”
Tôi không hề có ý tiết lộ tên họ của mình cho một người lạ
mặt như thế, nhưng cái âm giọng trong trẻo và vẻ thanh khiết khi cơn mưa đi qua
để lại nơi người con gái này khiến lời nói bỗng nhiên cứ trôi ra khỏi miệng từ
lúc nào chẳng hay. Có một khoảnh khắc nét hạnh phúc thoảng qua, cô ấy khe khẽ
cười, thật đẹp, dù rằng tôi chẳng thể hiểu được mục đích của nụ cười ấy, tôi vẫn
thấy cô thật đẹp khi cười như thế.
“Vẫn là Minami nhỉ.”
“Cậu biết tôi?”
Cô ấy ngước nhìn tôi, thoáng chút gì đó thất vọng, nụ cười
vụt tắt cũng nhanh như khi nó xuất hiện, ánh mắt nhìn về phía đường ray đang chạy
dài đến khoảng không xa xôi.
“Không,” Cô ấy ngập ngừng, như thể đã cố gắng suy nghĩ thật
kỹ để có thể nói lên được câu nói đó, cô chỉ cười nhạt, “Là phương Nam.
‘Minami’ là phương Nam mà.”
“Vào một ngày nào đó cũng nhiều mưa thế này, con tàu đó
đã mang người ấy đi về phương Nam xa xôi, vĩnh viễn cũng không bao giờ trở lại
gặp tôi nữa. ‘Minami’, thật đáng ghét.”
Câu cuối cùng có nghĩa là ‘phương Nam’ hay là ‘Minami’?
Chúng tôi im lặng một lúc lâu, mưa bắt đầu rơi, từ trên
mái hiên của nhà ga, những hạt nước li ti ngưng đọng rồi rơi xuống tạo những âm
thanh trong trẻo và nhẹ hẫng, mưa lất phất, những bụi cẩm tú cầu co mình trong
giá rét, cô ấy lại tiếp tục nhìn ngắm khung cảnh xung quanh bằng ánh mắt hờ hững
như ngắm nhìn những quang cảnh cũ kỹ bị lôi ra từ trong nhà kho bám đầy những bụi,
thờ ơ như thể tất cả những điều này cô đã quá quen rồi. Hồi còi của con tàu
vang vọng đẩy lùi âm thanh của mưa, cô ấy đưa mắt nhìn tôi, trong một thoáng
tôi nghĩ mình đã nhìn thấy một vệt nước mờ nhạt trong đôi nhãn cầu màu nâu kia,
nhưng khi cô ấy chớp mắt, nó cũng biến mất vào trong hốc mắt sâu thẳm tối tăm.
“Cậu không đi ư? Tàu sẽ khởi hành trong vài phút nữa đấy.”
Cô ấy thì thầm thật khẽ khàng đôi tay vô thức siết lấy
chiếc chuông gió.
“Còn cậu thì sao?”
Tôi hỏi lại, vài hạt mưa vương trên áo tôi, lạnh ngắt.
“Tôi...chưa thể đi được.”
“Vì sao?”
“Tôi đã hứa với người ấy là sẽ chờ ở đây. Tôi sẽ chỉ đi
cùng người ấy.”
Giọng cô ấy tuy mỏng nhưng thật dứt khoát, ánh mắt ánh
lên sự quyết tâm, như thể cô muốn nói rằng, đã có thể giữ được lời hứa lâu đến
vậy, cô nhất quyết sẽ không phá vỡ nó một cách dễ dàng.
“Người cậu đang chờ đã bao giờ trở lại chưa?”
Bỗng dưng tôi thấy chua xót khi hỏi cô ấy như thế. Thật
ngốc nghếch khi giữ lời hứa với một người sẽ chẳng bao giờ quay trở lại gặp cô
nữa. Tôi bỗng thấy cô thật đáng giận mà cũng thật đáng thương, một cô gái tội
nghiệp hơn bao giờ hết. Chỉ cần nghĩ đến bóng hình đơn lẻ kiên trì ngồi chờ đợi
một mình trên băng ghế gỗ ấy, trái tim đã đau đớn như bị ai đó bóp nghẹt.
Này, nếu truyền thuyết kia đúng, có phải tôi đang dần cảm
thấy bất lực trước cô gái này không? Và rằng một lúc nào đó, tôi...sẽ yêu cô ấy?
“Cho đến hôm qua thì chưa. Nhưng tôi chưa bao giờ ngừng
suy nghĩ rằng, ngay lúc này, có lẽ người ấy đang ở đâu đó quanh đây.”
Thật kỳ lạ, rõ ràng chỉ mới vừa nãy, cô ấy còn bảo rằng
mình vẫn đang chờ người ấy, vậy mà tại sao bây giờ lại nói rằng người ấy đang ở
ngay đây? Chẳng còn ai ở đây ngoại trừ hai chúng tôi và bác bảo vệ, người cô ấy
đang muốn nói đến là ai vậy?
“Thế cậu sẽ không đi ư?”
Cô ấy im lặng nhìn về phía đường ray giữa những khóm cẩm
tú cầu nở rộ. Còn năm phút nữa thôi, tàu sẽ khởi hành.
“Nếu tôi mời, cậu có đi không?”
Có lẽ khi ấy, đầu óc tôi đã chẳng còn đủ minh mẫn để xem
xét những gì mình sắp nói. Chỉ là, khi nhìn thấy nét đượm buồn nơi gương mặt
xinh đẹp ấy, sự e dè và bí ẩn cô mang theo bên mình cùng nỗi hoang mang xen lẫn
nuối tiếc trong ánh mắt ấy, tôi lại cảm thấy muốn được ở cạnh cô. Có thể là để
hỏi han, để trò chuyện, làm bạn hay bất cứ thứ gì đó người ta có thể làm để an ủi
một người lạ mặt tình cờ ta gặp được ở nhà ga. Chỉ thế thôi và nỗi khát khao muốn
được ở gần bên cô ấy, những xúc cảm chộn rộn đã theo chân tôi từ khi nghe thấy
tiếng chuông gió ngân nga kia bắt đầu thôi thúc, và khi tôi chìa tay ra trước mặt
cô ấy, ngang tầm mắt cô, vài sợi tóc đen rơi xuống bờ vai, trông cô có vẻ gì đó
sững sốt và xúc động, rồi chỉ mỉm cười với tôi, rụt rè đưa bàn tay lên chạm vào
tay tôi. Lạnh ngắt. Cái lạnh từ làn da cô ấy khác hẳn với mọi cảm giác lạnh lẽo
tôi từng cảm nhận trước đây. Có gì đó vừa lạ lẫm lại vừa thân quen, những ngón
tay của tôi tự động tìm đến kẻ hỡ nơi bàn tay cô ấy, chúng đan vào nhau vừa
khít, như thể chúng sinh ra là để chạm vào và lấp đi khoảng trống của nhau.
Trong mơ hồ, thảng hoặc tôi đã nhìn thấy hình ảnh bộ
yukata màu đỏ ấy lướt qua, lại văng vẳng tiếng cười ấy trong khoảnh khắc tay
chúng tôi chạm nhau. Minami. Phương Nam. Hai từ ấy lặp đi lặp lại và vang vọng
mãi trong đầu tôi.
Chúng tôi bước lên tàu vừa đúng lúc người soát vé chuẩn bị
đóng cửa lại. Chị giục tôi đi thật nhanh và vơ vội lấy hai tấm vé tôi chìa ra,
nhưng rồi lại ngạc nhiên đưa trả lại cho tôi trước khi con tàu khẽ khàng rung lắc
và từ từ chuyển động. Tôi định mở miệng nói rằng chúng tôi đi những hai người,
nhưng chị ta đã nhanh chóng di chuyển xuống cuối con tàu và để mặc cho tôi cùng
cô ấy đứng ở đó, cạnh bên băng ghế trống nhìn ra ngoài con đường cẩm tú cầu.
Cô ấy ngồi sát cửa sổ, đôi mắt nâu say sưa ngắm nhìn cảnh
vật ở làn đường phía bên mình, như thể đây là lần đầu tiên cô được nhìn thấy những
ngôi nhà, những luống rau, cẩm tú cầu, và cả khung cảnh làng quê bình dị của
Chiba nữa. Chúng tôi cứ im lặng như thế trong suốt chuyến đi, cảm giác hoang
mang và vui sướng dấy lên trong tôi mà chẳng có một lý do nào, nó cứ âm ỉ như
ngọn lửa đang cháy trong lòng mãi chẳng thể nào dập tắt được. Đoạn đường nối
Kazusanakano và trạm Ohara cứ bình lặng mà lướt qua như thế, duy chỉ có bàn tay
cô ấy vẫn đan siết lấy tay tôi không hề buông ra. Có đôi lúc, tôi muốn lên tiếng
nhắc cô về cử chỉ thân mật trong thời gian khá dài này, nhưng chẳng hiểu sao cứ
mỗi khi định mở miệng, cảm giác lạnh lẽo dần chuyển thành ấm áp nơi bàn tay lại
khiến tôi cảm thấy nuối tiếc nếu phải buông ra, vì thế chúng tôi không ai đả động
đến ai, hai bàn tay vẫn cứ đặt trên băng ghế như thế trong suốt cả chuyến đi.
Từ trạm Ohara, chúng tôi lại đi ngược về Kazusanakano,
nơi có nhà bà ngoại tôi ở đó. Trên đoạn đường trở về, cô ấy không ngắm nhìn những
đóa cẩm tú cầu đang tắm mình trong cơn mưa mùa hạ nữa, cô ấy chỉ trầm ngâm, cúi
mặt nhìn xuống vạt váy màu xanh đen tối tăm. Một cô gái đến từ quá khứ, đó là tất
cả những gì tôi nghĩ khi nhìn thấy cô. Đôi ba lần tôi bắt gặp cô đang lén nhìn
tôi, đôi nhãn cầu màu nâu ấy là thứ dịu dàng nhất tôi có thể cảm nhận được, khi
nó lặng lẽ hướng về phía tôi cùng với chiếc chuông gió trên bàn tay còn lại, cô
ấy mỉm cười nhàn nhạt, một nụ cười khó đoán được là buồn hay vui, hay có lẽ là
sự pha trộn của cả hai, tạo thành sự cay đắng, Tôi không thể chắc chắn, bởi vì
tôi chỉ có thể dùng trực giác mà cảm nhận, trong khi nhìn về phía cửa sổ bên
kia, ở nơi không có cô ấy, vờ như tôi chẳng hề nhận ra hành động lén lút của cô
trong suốt cả chuyến đi của cả hai chúng tôi.
“Atsuko.”
Cô ấy thì thầm như vậy, tôi đoán là cô đang nhìn xuống
chiếc chuông gió, vì trong tầm mắt của mình, tôi thấy ảo ảnh mờ nhạt của quả cầu
ấy đang lăn nhẹ trên vạt váy cô, những âm thanh leng keng khẽ ngân nga.
“Maeda Atsuko. Đó là tên của mình.”
Tôi ừ hử, vì chẳng biết phải nói gì. Nhưng có lẽ điều đó
khiến cô ấy cảm thấy hụt hẫng, vì kể cả khi không nhìn về phía sau lưng, tôi vẫn
cảm nhận được ánh mắt cô dán lên và những xúc cảm khó đoán đang quay cuồng
trong đáy mắt ấy. Không gian chìm vào trong nỗi căng thẳng và ngột ngạt đang đè
nặng lên cả hai, thế rồi đột nhiên, khi tôi nghĩ rằng Atsuko đã nhìn sang hướng
khác, cảm giác nhồn nhột nơi bờ vai khiến tôi giật bắn mình, và lúc tôi nhìn lại,
cô ấy đã ngả đầu lên vai tôi.
“N...này, tôi...”
“Mình xin lỗi cậu, Minami. Nhưng chỉ một lần này thôi. Cuối
cùng cậu cũng trở về rồi, sau bảy mươi năm, cậu đã về với mình rồi.”
Tôi không biết mình nên nói gì, cũng chẳng hề tìm ra được
bất cứ từ ngữ nào để có thể sắp xếp được thành một câu từ có ý nghĩa để trả lời
Atsuko. Nhưng hơi thở của cô ấy phả nhè nhẹ, đôi mắt nhắm lại, nét mặt dịu dàng
trông có vẻ thật yên bình, tôi ngắm nhìn cô trong giấc ngủ không mấy êm ả, đã
được gần nửa đường từ khi chúng tôi đi từ trạm Ohara về trở lại Kazusanakano,
trời đã vơi bớt mưa, những đóa cẩm tú cầu đầy sắc màu nép mình trong lạnh giá.
Tôi tranh thủ thời gian Atsuko không nhìn thấy để ngắm nhìn cô ấy, đồng phục kiểu
cũ, tôi tự hỏi cô học ở trường gì? Một vẻ đẹp lạ lẫm mà cũng thật quen thuộc,
tôi có cảm giác như mình đã từng nhìn thấy cô ở đâu đó, trong một miền ký ức rất
xa, nương theo tiếng chuông gió leng keng dẫn lối cùng thanh âm đầy tha thiết
cô gọi tên tôi, có lẽ, người mà Atsuko chờ đợi ở nhà ga đó, chính là tôi.
Truyền thuyết đó có thật. Có người đã ngồi đó đợi tôi.
Nhưng mà, tôi có yêu cô ấy không?
Trong mớ suy nghĩ hỗn độn cùng những xúc cảm lạ kỳ, tôi lại
nhớ đến bộ Yukata màu đỏ đang chạy nhảy bên dưới những tán cây cổ thụ đan vào
nhau tạo thành một cung đường khuất nắng, ở nơi đó, có tiếng cười trong trẻo dịu
dàng của cô gái nhỏ ấy, bóng hình đơn lẻ thân quen biến mất trước khi tôi kịp
chạm đến. Vừa lúc đó, âm giọng của ai đó vang vọng bên tai tôi, hình như là của
Yuko khi chị ấy ngồi cạnh tôi trên chuyến tàu buổi sớm, cũng bằng một ánh mắt
ngổn ngang khó tả cùng nụ cười buồn như Atsuko, chị thì thầm thật khẽ trong khi
tay nắm lấy tấm ảnh ai đó tôi không thể thấy rõ:
“Em biết không, ở nơi đó, chị đã gặp Haruna. Cô ấy đã chờ
chị ở trạm Kazusanakano chỉ để nói yêu chị, trước khi cô ấy vĩnh viễn rời đi và
không bao giờ trở về nữa.”
Có cảm giác Acchan trong này đã ra người thiên cổ từ lâu :(, nhưng vậy thì Minami chắc đã đầu thai hay chuyển thế sang kiếp khác và cũng tên là Minami vì 70 năm thì làm sao mà còn sống được.
ReplyDelete